Cà phê Robusta – Nguồn gốc & Đặc điểm sinh vật học
20-01-2023
Robusta hay còn gọi là cà phê vối thuộc giống Coffea canephora, cùng với C.Arabica đây là một trong hai loại cà phê được trồng thương mại chủ yếu trên thế giới. Robusta là chủ lực của ngành cà phê Việt Nam, góp phần giữ vị trí thứ 2 về sản lượng. Tuy nhiên, cũng cần biết rằng Robusta chỉ chiếm dưới 30% tổng cơ cấu sản xuất cà phê toàn cầu. Phần còn lại thuộc về giống Arabica và các con giống của nó.
Cà phê vối / Coffee Canephora / Robusta / Conilon
Source gốc trùng nhau
Coffea Canephora – Cà phê Robusta được phát hiện lần đầu tiên ở Congo – Bỉ (thuộc châu Phi) vào những năm 1800. Coffea canephora còn là một loại cây bản địa của các vùng rừng nhiệt đới xung quanh Hồ Victoria ở Uganda. Cà phê Robusta được đưa vào Đông Nam Á vào những năm 1900, sau khi bệnh gỉ sắt (Coffee Leaf Rust) đã quét sạch toàn bộ giống Arabica ở Sri Lanka năm 1869 (hay 1867 theo Wiki), đồng thời tấn công hầu hết các quốc gia. điền vào Java – Indonesia năm 1876.
Hiện tại Robusta chiếm từ 30% đến 40% tổng sản lượng cà phê thế giới, phổ biến ở Tây và Trung Phi, Đông Nam Á, Trung – Nam Mỹ chủ yếu là Brazil (nơi nó được gọi là Conillon).
Bản đồ phân bố của cà phê Arabica và Robusta [r] khu vực trồng Robusta, [a] khu vực trồng Arabica, [m] canh tác cả hai loại | Ảnh Wikimedia
Khu vực trung tâm châu Phi vốn được xem là nguồn gốc của hai loài cà phê thương mại chính bao gồm Coffea arabica (tức là Arabica) và Coffea canephora (tức là Robusta). Mặc dù Robusta từ lâu đã được coi là anh/em cùng họ ( Thiến thảo ) xấu xí của Arabica, nhưng các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng trên thực tế không phải vậy. Hóa ra Robusta thực sự là cha/mẹ của giống Arabica. Bằng cách phân tích trình tự gen của các loài thuộc giống cà phê, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng, ở miền nam Sudan, Coffea canephora đã lai với một loài khác có tên Coffea euginoides sinh ra giống Coffea arabica – tức cà phê Arabica
Phân vùng và đặc điểm thực tế học
Hoạt động canh tác Robusta đã được bắt đầu vào đầu thế kỷ 19 – như đã nêu trên – vì những thiệt hại đáng kể mà CLR gây ra đối với các đồn điền C. rabica ở Châu Á. Theo các tài liệu đáng tin cây (Charrier và Eskes, 1997), cà phê Robusta đã được mang đến Java, Indonesia vào năm 1901 Cộng hòa Dân chủ Congo (Cộng hòa Congo). Những cây Robusta này đã nhanh chóng có mặt tại Châu Phi và được những người nông dân Châu Phi đầu tiên đón nhận nhờ sức sống, năng suất và khả năng chống lại CLR. Đồng thời, một số chủng loại cà phê khác nhau của Robusta như Kouillou , Maclaudi & Game , Niaouli hoặc Coffea ugandae cũng được khai thác ở các quốc gia khác nhau như Bờ biển Ngà, Guinea, Togo hoặc Uganda, tương ứng.
Năm 1908, người Pháp đưa Robusta cùng với một giống khác là Excelsa vào Tây Nguyên (sucafina)
Từ sau những năm 1960, các dòng nhân giống vô tính mới của Robusta đã được phát triển ở Uganda, Congo, và sau đó là ở Bờ Biển Ngà. Tuy nhiên, không có nhiều thay đổi về đặc tính so với các cây ban đầu. Ngày nay, chỉ có một số quốc gia tiếp tục với chương trình tuyển chọn cho thương mại, với một số cải thiện. Điển hình ở Bờ Biển Ngà – Nơi có chức năng tăng từ 30% lên 110% và kích thước hạt tăng 50%. Một số giống mới cũng được phát triển ở Brazil, nơi nó được gọi là Conillon.
Đặc điểm thực vật học
Ngay cả khi một số cây cà phê được tìm thấy ở nơi cách mực nước biển lên đến 2300m, thì hầu hết các loài (67%) đều thích nghi với phạm vi giới hạn cao dưới 1000m. Và Robusta là điển hình trong nhóm “dễ thưởng thức” đó, nên chúng được trồng ở các khu vực thấp hơn Arabica (chỉ trong tầm 0 – 800m). Bù lại Robussta yêu cầu lượng mưa khá lớn (từ 1200 – 2500mm) do đó, hầu hết các loài có phân bố rộng ở lục địa châu Phi (tức là C. canephora , C. eugenioide s) thường được tìm thấy trong môi trường ẩm ướt.
Cà phê Robusta (cà phê vối) tại Đắk Lăk – Việt Nam
Cà phê Robusta có một số điểm nổi trội so với cây cà phê Arabica như khả năng chống bệnh gỉ sắt (Coffee Leaf Rust), sâu đục thân, các tuyến trùng,.. và cho hiệu suất cao hơn cà phê Arabica nhiều. . Vì những lý do này, chi phí trồng Robusta tương đối thấp với giống Arabica. Mặt khác, không có khả năng chịu các điều kiện hạn hán kéo dài, chịu lạnh kém (nhiệt độ thích hợp tối đa trong khoảng (18 – 36 o C ) , sản lượng không ổn định so với Arabica, đây là một số thuộc tính tiêu cực của cà phê Robusta.
Đặc tính hương vị cà phê Robusta
Hương vị của cà phê Robusta luôn được đánh giá là kém cạnh so với Arabica từ trước đến nay. Chất vị nhìn chung đậm, chát và đắng hơn nhiều so với Arabica. Kể từ khi cà phê Arabica được cho là có chất vị mượt mà với tính axit (Axit) cao hơn và hương vị phong phú hơn, chúng thường được coi là cao cấp. Thêm vào đó các khu vực trồng và chế biến cà phê Robusta hầu hết tập trung chế biến khô (thay vì chế biến ướt như các giống Arabica), dẫn đến hương vị cay đắng hơn, có mùi từ ngũ cốc đến gỗ, đất sau khi reo.
Tuy nhiên bù lại thiệt hại về chất vị, cà phê Robusta có hàm lượng Caffein trung bình cao gấp đôi so với Arabica (2%-2.5% so với 1.1%-1.5%). Vì vậy sự kết hợp giữa cà phê Arabica và Robusta cho tổng chất lượng tương đối cao hơn cà phê Arabica, chính vì điều này mà các loại cà phê Ý (Espresso) luôn có 10 -15% cà phê Robusta để tăng cường hương và vị. tạo lớp Crema hấp dẫn hơn.
Một lưu ý về “độ đắng” của Robusta
Cần hiểu rằng, mặc dù được gọi là “Axit”, nhưng Axit Chlorogenic (CGA) không được đặc trưng bởi “vị chua” mà là “vị đắng” . Trong quá trình rang, CGA sẽ phân hủy để tạo thành axit caffeic và axit quinic (khoảng 50% số CGA gốc bị hủy trong một hạt rang vừa). Cùng với caffein – những chất này gây nên vị đắng khắc nghiệt thường thấy ở Robusta. Đó là lý do vì sau chúng ta nói Robusta có gấp đôi lượng axit – nhưng thực sự nó không hề chua, mà cay đắng hơn Arabica (theo hóa học cà phê).
Tuy nhiên bù lại thiệt hại về vị, Robusta có hàm lượng Caffein cao gấp đôi so với Arabica (2%-2,5% so với 1,1%-1,5%). Vì vậy sự kết hợp giữa cà phê Arabica và Robusta cho tổng chất lượng tương đối cao hơn cà phê Arabica, chính vì điều này mà các loại cà phê Ý (Espresso) luôn có 10 -15% cà phê Robusta để tăng cường hương và vị. tạo lớp Crema hấp dẫn hơn.
Nên việc so sánh Arabica và Robusta đôi khi không hoàn toàn chính xác.